Bảng chữ cái ngữ âm quốc tế này còn được gọi là Bảng chữ cái ngữ âm của ICAO và Bảng chữ cái của NATO (với một số sửa đổi). Đây là một tập hợp các từ ngữ được sử dụng để làm rõ nội dung điện văn (messages), bất kể ngôn ngữ nói. Các thành phần trong quân đội, cảnh sát, phi công hàng không và những người khác làm việc trong ngành hàng không và ngành vận chuyển đều sử dụng nó.
Bảng chữ cái ngữ âm của ICAO gồm có 26 từ mã ứng với 26 chữ cái của bảng chữ cái tiếng Anh theo thứ tự bảng chữ cái: Alfa, Bravo, Charlie, Delta, Echo, Foxtrot, Golf, Hotel, India, Juliett, Kilo, Lima, Mike, November, Oscar, Papa, Quebec, Romeo, Sierra, Tango, Uniform, Victor, Whisky, X-ray, Yankee, Zulu.
Bảng chữ cái ICAO
Với từ ngữ đơn giản và ngắn gọn, bảng chữ cái ngữ âm của ICAO giúp giảm nguy cơ hiểu nhầm và tăng tính an toàn về mặt khai thác cho hành khách và phi hành đoàn. Bởi vì một số chữ cái phát âm gần giống nhau (M và N hoặc G và J) có thể gây nhầm lẫn giữa hai người trao đổi có giọng điệu khác nhau hoặc khi đường truyền kém. Bảng chữ cái ngữ âm giúp hạn chế nhầm lẫn giữa buồng lái và đài KSKL.
Không chỉ các chữ cái trong bảng chữ cái ngữ âm của ICAO, các chữ số cũng được áp dụng tương tự nhằm tránh nhầm lẫn. Do vậy, một số chữ số được phát âm khác so với cách phát âm tiếng Anh tiêu chuẩn. Chúng bao gồm các số: three phát âm là tree (tri), five là fife và nine là niner. Khi ta xem xét số hiệu tàu bay, chẳng hạn như M345N, trên sóng vô tuyến, số hiệu này sẽ được đọc là "Mike, tree, four, fife, November."
ICAO đã thông qua bảng chữ cái ngữ âm cách đây 70 năm, vào ngày 1 tháng 11 năm 1951, như một tiêu chuẩn toàn cầu để trao đổi liên lạc chữ cái tiếng Anh qua sóng điện thoại hoặc vô tuyến. Trước đó đã có một số ý kiến không hài lòng với bảng chữ cái ngữ âm của ICAO dẫn đến việc ICAO xem xét và đưa ra bản dự thảo đầu tiên về bảng chữ cái toàn cầu duy nhất. Trong những năm 1948 và 1949, Jean-Paul Vinay, giáo sư ngôn ngữ học tại Đại học Montréal ở Canada, đã hợp tác với bộ phận ngôn ngữ của ICAO để xây dựng một bảng chữ cái ngữ âm mới. Các yêu cầu tối thiểu đối với các từ đó là có cách phát âm tương tự trong tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha và phải là các từ trực tiếp (live words) trong mỗi ngôn ngữ này.
Sau khi nghiên cứu và tham khảo ý kiến của các chuyên gia lĩnh vực thông tin liên lạc và nhận xét từ tất cả các quốc gia thành viên ICAO, bảng chữ cái ICAO mới đã được thông qua và đưa vào Phụ ước 10 “Viễn thông Hàng không” để thực hiện trong ngành hàng không dân dụng. Các từ đại diện cho các chữ cái C, M, N, U và X đã được thay thế và ICAO đã hoàn thành phiên bản cuối cùng vào ngày 1 tháng 3 năm 1956. Phiên bản này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay trên toàn thế giới. Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về sự phát triển và triển khai bảng chữ cái này trong Bảo tàng ICAO (ICAO Museum), tọa lạc bên trong Trụ sở chính của ICAO ở Montréal.
Nguồn Unitingaviation