Biểu tượng của Thủ đô Hà Nội

Hai ngày qua, đã có một số ý kiến bàn về biểu tượng của Thủ đô Hà Nội. Bên nhiều ý kiến đồng tình còn có sự băn khoăn về việc chọn hình ảnh Khuê Văn Các (công trình kiến trúc quan trọng trong quần thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng Văn Miếu - Quốc Tử Giám) làm biểu tượng của Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt vấn đề sao không chọn hình ảnh Tháp Rùa hay chùa Một Cột vốn được nhiều người nước ngoài biết tới.

Chọn hình ảnh biểu tượng và thiết kế biểu trưng cho một đô thị - Thủ đô quan trọng như Hà Nội là một việc lớn, cần phải cân nhắc nhiều yếu tố mang tính đặc trưng của phần việc này. Nhân dịp này, Hànộimới xin giới thiệu với bạn đọc về quá trình xét chọn mẫu biểu trưng của Thủ đô Hà Nội kể từ năm 1997 và ý kiến của nhà quản lý văn hóa, các học giả và nghệ sĩ về Khuê Văn Các với ý nghĩa biểu tượng của Thủ đô.

Hình ảnh Khuê Văn Các đã được chọn làm biểu tượng của Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Linh Tâm

Cách đây 15 năm, UBND TP Hà Nội đã ra quyết định tổ chức cuộc thi sáng tác mẫu biểu trưng Thủ đô Hà Nội dành cho công dân toàn quốc và kiều bào ở nước ngoài. Trong suốt hai năm sau đó, Hội đồng nghệ thuật xét chọn mẫu biểu trưng gồm nhiều nghệ sĩ, nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa uy tín của trung ương và Hà Nội đã xem xét hàng trăm tác phẩm được gửi tới từ khắp mọi miền đất nước trước khi đi tới kiến nghị chọn Khuê Văn Các là biểu trưng chính thức của Thủ đô Hà Nội.

Năm 1997, thời điểm Hà Nội chuẩn bị bước vào chặng nước rút 10 năm hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, sự cần có một biểu trưng chính thức của Thủ đô ngàn năm văn hiến trở thành yêu cầu cấp thiết. Ngày 28-5-1997, UBND TP Hà Nội đã ban hành Quyết định số 2047/QĐ-UB về việc tổ chức cuộc thi sáng tác mẫu biểu trưng Thủ đô Hà Nội. Yêu cầu đặt ra là mẫu biểu trưng Hà Nội cần phải thể hiện tính chất, đặc điểm của Hà Nội, một Thủ đô ngàn năm văn hiến và là trung tâm chính trị - văn hóa - khoa học - kinh tế của cả nước ngày càng rõ tính văn minh, hiện đại. Mẫu biểu trưng, ngoài yêu cầu về tính thẩm mỹ, sự kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc và hiện đại thì còn phải rõ tính ứng dụng, thuận tiện cho việc in ấn, đắp nổi, phóng to, thu nhỏ, dễ thể hiện trên các loại chất liệu, công trình kiến trúc… Để bảo đảm sự khách quan, công bằng trong quá trình tuyển chọn, ngày 21-7-2007, UBND TP đã ban hành Quyết định số 2799/QĐ-UB về việc thành lập Hội đồng nghệ thuật của cuộc thi này, gồm nhiều học giả, nghệ sĩ, nhà quản lý văn hóa uy tín của trung ương và Hà Nội.

Đó là một cuộc thi đặc biệt, không chỉ bởi quy mô rộng mở mà còn ở cách thức tiến hành. Tính từ ngày 31-5-1997, ngày phát động cuộc thi cho tới ngày 19-8-1998, trong vòng hơn một năm BTC và Hội đồng nghệ thuật đã ba lần thu nhận - xét tuyển các tác phẩm được gửi đến. Tính chung cho cả ba kỳ xét tuyển, đã có 237 tác giả gửi 428 tác phẩm dự thi, xen giữa những kỳ thu nhận tác phẩm và xét chọn ấy là rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao thưởng, góp ý với tác giả về tác phẩm nhằm có giải pháp chỉnh sửa, bổ sung; chọn mẫu hay để giới thiệu trên báo in, truyền hình, phát thanh nhằm xin ý kiến rộng rãi trong nhân dân. Ngày 15-2-1998, sau khi kết thúc đợt xét chọn thứ hai, BTC đã tổ chức triển lãm hơn 80 tác phẩm tại Nhà Thông tin - Triển lãm 45 Tràng Tiền. Lần ấy, đã có gần 300 ý kiến của nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài gửi cho các tác giả và BTC, góp ý với cách thể hiện của các tác giả cũng như thể hiện sự lựa chọn của riêng mình. Điều đáng nói là đa số trong hàng trăm ý kiến ấy đã đề xuất hình tượng tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội là Khuê Văn Các hoặc Rồng bay. Đợt tuyển chọn thứ ba diễn ra từ ngày 19-5-1998 đến 19-8-1998 có tới 136 tác phẩm dự thi, cũng là đợt xét chọn khiến các thành viên Hội đồng nghệ thuật hài lòng hơn cả.

Sau nhiều vòng bỏ phiếu, Hội đồng đã quyết định chọn ba mẫu của các tác giả Phạm Ngọc Tuấn (người Việt Nam đang sống tại Pháp), Phạm Phú Oanh (Việt kiều Đức), Nguyễn Thủy Liên - được đánh giá là tiêu biểu về nội dung biểu đạt và chất lượng nghệ thuật. Trong đó, mẫu dự thi số 046 về Khuê Văn Các của tác giả Phạm Ngọc Tuấn nhận được 10/11 phiếu của Hội đồng nghệ thuật, nhận giải nhất cuộc thi; hai tác giả còn lại được nhận giải ba (không có giải nhì). Ngày 23-7-1999, UBND TP Hà Nội đã có Quyết định số 59/1999/QĐ-UB về việc công nhận mẫu của tác giả Phạm Ngọc Tuấn được sử dụng là biểu trưng chính thức của Thủ đô Hà Nội. Ngày 28-9-1999, tại kỳ họp thứ 14 - HĐND TP khóa XI, Hội đồng nhân dân TP Hà Nội đã ra Nghị quyết số 166-1999-NQ/HĐ về việc công nhận biểu trưng của Thủ đô Hà Nội. Cuối năm 1999, UBND TP Hà Nội đã có văn bản báo cáo Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) và Bộ Văn hóa thông tin (nay là Bộ VH,TT&DL) về việc công bố và đưa vào sử dụng biểu trưng nói trên, trong đó có đánh giá về mẫu biểu trưng chính thức của Thủ đô Hà Nội: Mẫu biểu trưng đã nêu được truyền thống văn hóa dân tộc qua hình tượng Khuê Văn Các, thể hiện sự vươn tới văn hóa, vươn tới tri thức loài người. Biểu trưng thể hiện Khuê Văn Các với phong cách nghệ thuật hiện đại, chắc chắn, vững vàng; cơ bản thể hiện được tính chất và đặc điểm của Thủ đô ngàn năm văn hiến, kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc và hiện đại, thuận lợi cho việc sử dụng.

Trong thực tế, kể từ khi được công nhận, biểu trưng Thủ đô Hà Nội đã được đưa vào sử dụng rộng rãi trong công tác tổ chức các lễ hội kỷ niệm, trong hoạt động của các cơ quan Hà Nội, ban hành văn bản, công bố sản phẩm… Đặc biệt là từ sau Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, biểu trưng Khuê Văn Các đã trở thành hình ảnh thân thuộc, gắn bó, thực sự là hình ảnh mang tính biểu tượng của Thủ đô ngàn năm văn hiến.

Ông Nguyễn Viết Chức, Viện trưởng Viện nghiên cứu văn hóa Thăng Long - Hà Nội, nguyên Giám đốc Sở VH,TT&DL Hà Nội: Xứng đáng là hình ảnh biểu tượng của Thủ đô

Là thành viên của Hội đồng nghệ thuật cuộc thi chọn mẫu biểu trưng của Hà Nội, tôi có thể khẳng định mục tiêu, cách thức tuyển chọn mẫu biểu trưng được tiến hành công khai, cẩn trọng, nghiêm túc. Việc tuyển chọn do một hội đồng gồm các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, hội họa, điêu khắc có chuyên môn cao thực hiện.

BTC chỉ đưa ra những yêu cầu chung mà tác phẩm cần đạt tới chứ không giới hạn đề tài và đã nhận được hàng trăm mẫu dự thi, có mẫu về chùa Một Cột, có mẫu về Tháp Rùa, về rồng thời Lý, về trống đồng trang trí hình chim lạc… Khuê Văn Các với đường nét cách điệu đã được chọn. Khi chọn mẫu này, Hội đồng nghệ thuật đã xét đến cả các yếu tố như Khuê Văn Các là một trong những hạng mục quan trọng tạo nên quần thể di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội - trường đại học đầu tiên của Việt Nam, nơi giáo dục, vinh danh tinh thần hiếu học, trọng hiền tài của nhiều thế hệ người Việt Nam, được đông đảo người dân trong nước cũng như quốc tế biết đến. Công trình ấy vừa có giá trị văn hóa vật thể, vừa mang giá trị phi vật thể sâu sắc. Khuê Văn Các chỉ có riêng ở Hà Nội, mang dấu ấn văn hóa Hà Nội rất rõ nét, xứng đáng là biểu tượng của Thủ đô.

Ông Trần Khánh Chương, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam, thành viên Hội đồng nghệ thuật Cuộc thi chọn mẫu biểu trưng Hà Nội: Mẫu Khuê Văn Các là hợp lý nhất

Qua 3 lần phát động, cuộc thi nhận được rất nhiều tác phẩm của hàng trăm tác giả trên toàn quốc. Có nhiều đề tài, nhưng số người chọn Khuê Văn Các vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất. Lần thứ nhất, hội đồng không lựa chọn được tác phẩm nào; lần thứ hai chọn được vài mẫu, nhưng chưa ưng ý, chỉ đến lần tuyển chọn thứ 3 thì mới tìm được tác phẩm xứng đáng đại diện cho Hà Nội. Từng ấy vòng tuyển chọn, đủ thấy quy trình xét chọn khách quan, công bằng đến mức nào, yêu cầu khắt khe ra sao.

Biểu trưng của Hà Nội, ngoài tính điển hình, khái quát thì còn mang giá trị nghệ thuật, giá trị biểu tượng nên dễ thấy có nhiều ý kiến khác nhau ngay trong quá trình tuyển chọn, song về cơ bản mọi người đều thống nhất chọn Khuê Văn Các. Nếu so sánh với các di tích khác thì rõ ràng Khuê Văn Các hợp lý hơn cả.

Ông Lưu Minh Trị, nguyên Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội: Hà Nội phải có biểu trưng

Sau khi thống nhất đất nước, đã có nhiều đề xuất lựa chọn biểu trưng cho Hà Nội, song vì nhiều lý do nên chưa thể thực hiện được. Trong quá trình chuẩn bị kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội, một lần nữa việc lựa chọn biểu trưng cho Hà Nội được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa đề xuất, trên cơ sở đó, năm 1997 UBND TP Hà Nội phát động cuộc thi sáng tác mẫu biểu trưng Hà Nội. Sau 3 kỳ phát động, năm 1999, Hội đồng nghệ thuật đã lựa chọn mẫu thể hiện Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám trong vòng tròn bằng đường nét cách điệu, giản dị, khỏe, đẹp làm biểu trưng của Hà Nội.

Ban đầu, Hội đồng nghệ thuật chưa biết rõ về tác giả mẫu biểu trưng này, họ chọn vì nó đáp ứng được yêu cầu của cuộc thi, giàu giá trị văn hóa, nghệ thuật, dễ hiểu, dễ ứng dụng. Sau này mọi người mới biết tác phẩm được chọn là của một Việt kiều (họa sĩ Phạm Ngọc Tuấn, người Hà Nội, hiện đang sống tại Pháp, ông cũng là tác giả của logo chùa Cầu - biểu trưng của thành phố Hội An - PV).

Minh Ngọc ghi

Vằng vặc sao Khuê, ngàn năm văn hiến

Điều 6, chương I Dự thảo Luật Thủ đô ghi Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội là biểu tượng Thủ đô. Lật đi lật lại vấn đề, dựa trên một biểu trưng chính thức của Thủ đô được xây dựng trên hình ảnh Khuê Văn Các, trong mối tương quan với nhiều di tích, hình tượng tiêu biểu khác của đất Thăng Long - Hà Nội và Xứ Đoài hiện nay, thật khó tìm ra một hình ảnh khác đủ sức gói ghém đặc trưng quan trọng nhất của một Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến như gác Khuê Văn.

Trước khi Khuê Văn Các được đưa vào Dự thảo Luật Thủ đô với ý nghĩa biểu tượng chính thức của Thủ đô Hà Nội, bản thuyết minh của Bộ Tư pháp có dẫn giải: Biểu tượng của Thủ đô là hình tượng đặc trưng gắn với truyền thống lịch sử, văn hóa của Hà Nội và cả dân tộc Việt Nam; thể hiện nguyện vọng, niềm tự hào của người dân Thủ đô và nhân dân cả nước về một Thủ đô văn hiến, văn minh, hiện đại của nước Việt Nam. Vì vậy, việc quy định về biểu tượng của Thủ đô trong dự thảo Luật là cần thiết. Về hình ảnh là biểu tượng của Thủ đô, trong quá trình soạn thảo dự án Luật Thủ đô, đa số ý kiến đề nghị nên chọn hình ảnh Khuê Văn Các, biểu tượng của truyền thống hiếu học của người dân Thủ đô và cả nước.

Khuê Văn Các - Hình tượng đặc trưng gắn với truyền thống lịch sử, văn hóa của Hà Nội và cả nước. Ảnh: Nguyệt Ánh

Trên tinh thần đó, Điều 6 dự thảo Luật quy định: "Biểu tượng của Thủ đô là hình ảnh Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám".

Ngày nay, so với nhiều di tích, hình tượng tiêu biểu khác, được nhiều học giả nhắc đến như chùa Một Cột, Rồng bay, Tháp Rùa - hồ Hoàn Kiếm… và thậm chí là cả Cột cờ Hà Nội, Khuê Văn Các có lợi điểm không thể bỏ qua khi xét công nhận biểu tượng chính thức của Hà Nội. Công trình kiến trúc ấy chuyên chở một câu chuyện lịch sử rõ tính nhân văn, lại nằm trong một quần thể di tích đặc biệt quan trọng là Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Gác Khuê Văn soi bóng giếng Thiên Quang, phân tích kỹ thấy rõ ý nghĩa nhân văn, rõ tính triết học, gần gũi với Thăng Long - Hà Nội. Như một số nhà nghiên cứu đã giải thích: "Khuê Văn Các có 2 tầng 8 mái, tượng trưng cho Thái cực. Tầng mái trên, nhẹ, mang tính dương. Lớp mái dưới nặng, là âm. Âm dương đối đãi gọi là "Lưỡng nghi", 4 phía mái coi là "Tứ tượng". Tám mái tượng trưng cho bát quái. Khuê Văn Các không chỉ nói đến sự trong sáng của nhà Nho hay tượng trưng cho sao Khuê - sao chủ văn học, mà còn mang ý nghĩa phát sinh, phát triển của vũ trụ, sự tạo lập thế giới nhân sinh.

Giếng Thiên Quang ngay dưới chân Khuê Văn Các cũng mang yếu tố âm dương đối đãi: "giếng nước ở thấp, là âm; Khuê Văn Các cao, là dương. Nước hấp thụ ánh sáng trời còn Khuê Văn Các rêu phong, đó là vấn đề mang ý nghĩa triết học".

Ấy là chưa kể những câu chuyện trà dư tửu hậu còn lưu ý một điều quan trọng - ngày càng có ý nghĩa lớn hơn trong đời sống xã hội hiện đại, rằng Khuê Văn Các là công trình kiến trúc thuần Việt trăm phần trăm.

Thời hiện đại, khi vấn đề tài chính, những quyết sách kinh tế tỏ rõ sự quan trọng đối với sự hưng thịnh của quốc gia, dám chắc không có người yêu và hiểu Hà Nội nào phủ nhận vai trò nổi bật của văn hóa ở đất này. Điều đó bắt nguồn từ truyền thống văn hóa - văn hiến Thăng Long - Hà Nội với những giá trị hàng đầu làm nên cái riêng có của đất Hà thành, không có gì khác hơn, lớn hơn, quan trọng hơn là trí tuệ được tiếng hơn người (không phô trương), nét tinh tế thanh lịch, tính nhân văn (từ sâu thẳm). Sự học và hiểu biết ở đất này nhiều khi được coi trọng hơn lắm tiền nhiều của. Sức sống Thăng Long - Hà Nội, dù trong bể giông bão biến thiên thời cuộc vẫn được duy trì một phần là vì thế. Khuê Văn Các, biểu trưng của trí tuệ, sự thanh cao, hướng tới sự coi trọng nhân tài - nguyên khí quốc gia, chẳng xứng đáng là biểu tượng cho truyền thống không gì lay chuyển nổi ấy hay sao?

Nói những điều trên không có nghĩa hạ thấp vai trò và tầm quan trọng của những di sản, hình tượng đã đi vào tiềm thức của người Hà Nội cũng như những ai yêu Hà Nội thật lòng. Những chùa Một Cột, Tháp Rùa - hồ Hoàn Kiếm, Tháp Bút, Cột cờ Hà Nội, Hoàng thành Thăng Long, hình tượng Rồng bay, Cổ Loa, Thăng Long tứ trấn… đã là một phần không thể thiếu của đất này, góp phần làm rạng danh Thăng Long - Hà Nội, khiến ta không thể nặng lòng? Nhưng là biểu tượng thì cần bao hàm sự khái quát, cả truyền thống và hiện đại, hướng tới tương lai, rõ đặc trưng nổi bật Thăng Long - Hà Nội. Với ý nghĩa ấy, Khuê Văn Các chẳng phải thật là xứng đáng hay sao?

Lịch sử Việt Nam ghi nhớ công ơn tiên tổ, cả về xây đắp bờ cõi và bảo vệ chủ quyền. Những chiến công hiển hách được ghi nhớ đời đời, cùng những hoài bão, truyền thống của người Việt cũng như người Hà Nội - công dân của Thành phố vì hòa bình hiển nhiên là không sợ hãi bất cứ sức mạnh ngoại lai nào, nhưng trước sau ước mong một thế giới không lo toan chinh chiến. Chẳng phải thế mà Khuê Văn Các (gác văn sao Khuê) nức tiếng đề cao học vấn, văn chương thơ phú, được xây dựng xong vào năm 1805 nhờ công của một vị quan võ - Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành (1758-1817), tự thân đã nói lên quá nhiều sự đặc biệt?

Hà Nội cần có Luật Thủ đô, sự tiếp nối sau những chỉ thị, nghị quyết từ cấp cao về sự phát triển Thăng Long - Hà Nội. Thành phố nghìn năm tuổi thì không thể thiếu biểu tượng, biểu trưng rõ tính đại diện. Khuê Văn Các, chẳng phải thế hay sao?

Ông Trần Lâm Biền, nhà nghiên cứu di sản văn hóa: Khuê Văn Các đáp ứng các tiêu chí cần có của một biểu tượng

Có thể nói không có gì xứng đáng trở thành biểu tượng của Thủ đô hơn Khuê Văn Các - được xây dựng vào thời Nguyễn.

Khuê Văn Các đáp ứng được các tiêu chí của một biểu tượng ở rất nhiều mặt. "Khuê" tức là sao Khuê - ngôi sao sáng, nên Khuê Văn Các là biểu hiện đỉnh cao của trí tuệ, là sự khái quát, sự nhắc lại một chân lý "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" đã khắc trên văn bia tại Văn Miếu. Hơn thế, Khuê Văn Các có 2 tầng, 8 mái, nóc ở trên là 9. Theo kinh dịch, những con số lẻ (1, 3, 5, 7, 9) là dương, thể hiện sự sinh sôi nảy nở, phát triển. Cạnh Khuê Văn Các là giếng Thiên Quang hình vuông, tượng tưng cho mặt đất, các cửa sổ hình tròn của gác Khuê Văn tượng trưng cho bầu trời, có ý nói đây là nơi tập trung mọi tinh hoa của đất trời… Bởi thế, Khuê Văn Các là biểu tượng cho mong ước phát sinh, phát triển của con người, vừa phù hợp với tư duy, ước vọng của người xưa, vừa đáp ứng được mong muốn phát triển của thời nay.

Với những tầng ý nghĩa như vậy, tôi cho rằng Hà Nội chọn Khuê Văn Các làm biểu trưng là có ngụ ý lấy trí tuệ làm con đường đi tới tương lai, nói cách khác là Hà Nội hướng tới tương lai, xây dựng tương lai dựa trên nền tảng trí tuệ. Do đó, việc chọn Khuê Văn Các làm biểu tượng của Hà Nội sẽ đáp ứng được các yêu cầu của quá khứ, hiện tại, tương lai. Dự thảo Luật Thủ đô quy định biểu tượng Thủ đô là Khuê Văn Các, theo tôi không có gì là bất hợp lý và cũng không cần phải thay đổi biểu trưng Khuê Văn Các hiện nay.

Ông Đặng Kim Ngọc, Giám đốc Trung tâm hoạt động khoa học Văn Miếu- Quốc Tử Giám Hà Nội: Gác Khuê Văn là biểu trưng cho trí tuệ, giá trị nhân văn sâu sắc của Thăng Long - Hà Nội

Trên thế giới, nhiều nước đã chọn những công trình kiến trúc làm biểu tượng cho thủ đô hoặc cho đất nước mình. Chẳng hạn, nói đến thủ đô Paris (Pháp), người ta sẽ nghĩ ngay tới tháp Eiffel; ngược lại, nói đến tháp Eiffel, người ra biết ngay đó là biểu tượng của Paris. Nói đến tượng Nữ thần Tự do là biết ngay nó là của nước Mỹ, nói đến Italia là phải nhắc đến tháp nghiêng Pisa… Hà Nội với bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa hàng nghìn năm, với hệ thống di tích kiến trúc dày đặc cũng rất cần có hình ảnh biểu tượng.

Khuê Văn Các biểu trưng cho giáo dục, trí tuệ, giá trị nhân văn sâu sắc của Thăng Long- Hà Nội, đi vào tâm thức của người Hà Nội nhiều thế hệ, xứng đáng trở thành biểu tượng của Hà Nội. Về mặt kiến trúc, Khuê Văn Các tuy không hoành tráng nhưng lại hài hòa với quần thể di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, phù hợp với quan niệm về cái đẹp của người Việt, đó là cái đẹp cân đối, hài hòa.

Biểu trưng của Hà Nội là hình ảnh Khuê Văn Các trong vòng tròn cách điệu đã được sử dụng hơn 10 năm nay, được nhiều cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp sử dụng khi thiết kế logo, được người dân đón nhận, nên theo tôi không cần và không nên thay đổi. Việc quan trọng cần làm là tăng cường giới thiệu, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Khuê Văn Các với ý nghĩa biểu tượng của Thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ông Giang Quân, nhà báo, nhà nghiên cứu về Hà Nội: Biểu trưng, biểu tượng xứng đáng của Thăng Long - Hà Nội

Dù là biểu trưng hay biểu tượng thì Khuê Văn Các đều xứng đáng là hình ảnh đại diện cho Thủ đô. Người Hà Nội nói riêng, người Việt Nam và du khách quốc tế nói chung quen thuộc với nhiều di tích khác của Hà Nội, nhưng khi đi sâu vào nghiên cứu, phân tích thì đa phần những di tích đó còn có những hạn chế, khó có thể trở thành biểu trưng hay biểu tượng.

Khuê Văn Các, dù mới được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX nhưng nó nằm trong quần thể di tích điển hình của Hà Nội, mang nhiều tầng ý nghĩa, vừa là biểu tượng cho văn hóa, nghệ thuật, vừa mang ý nghĩa giáo dục, nhân văn, vừa khẳng định triết lý dụng nhân, tôn trọng hiền tài của ông cha. Khái quát hơn, Khuê Văn Các phác họa nét thanh lịch, hào hoa, nho nhã của người Hà Nội.

Biểu trưng Hà Nội là hình ảnh Khuê Văn Các cách điệu hiện nay mang nhiều ý nghĩa, nhìn khỏe khoắn, dễ hiểu, dễ nhận biết, đã được sử dụng nhiều năm, không nên thay đổi để tránh rắc rối, lãng phí.

Minh Ngọc ghi

Link nội dung: https://cdsphagiang.edu.vn/index.php/bieu-tuong-cua-thu-do-ha-noi-a57662.html