Bạn rất muốn sinh thêm một bé trai trong gia đình? Mặc dù việc lựa chọn giới tính thai nhi là cấm kỵ, nhưng không ít ông bố và bà mẹ vẫn luôn canh cánh điều này trong lòng. Có rất nhiều tin đồn về bí quyết quan hệ để sinh con trai. Những phương pháp nào có thể giúp bạn sinh con trai? Có phương pháp nào đặc biệt hiệu quả không? Mời bạn cùng ThS.BS Trần Quốc Phong tìm hiểu về chủ đề này qua bài viết sau đây.
Giới tính sinh học của em bé được quyết định bởi sự kết hợp của các nhiễm sắc thể. XY sẽ tạo ra bé trai, XX sẽ tạo ra bé gái. Tinh trùng sẽ đóng góp ngẫu nhiên giao tử X hoặc Y, còn trứng đóng góp giao tử X. Vậy có cách nào đảm bảo bạn sẽ sinh con trai tự nhiên hay không? Câu trả lời là không có. Về mặt y học, ngoài việc cấy ghép một phôi thai đã được xác định chắc chắn là con trai, thì không có biện pháp quan hệ để sinh con trai.
Nhìn chung, có khoảng 50% cơ hội sinh con trai hoặc con gái nếu mọi thứ diễn ra tự nhiên. Tất cả phụ thuộc vào việc tinh trùng nào chiến thắng trong cuộc đua bơi đến trứng. Và có hàng triệu tinh trùng làm điều đó mỗi lần quan hệ. Một số người xuất hiện ý nghĩ muốn tác động vào giới tính thai nhi. Nhiều tin đồn cho rằng cách tính thời gian, chọn vị trí quan hệ, đổi chế độ ăn,… có thể thay đổi môi trường âm đạo có lợi cho tinh trùng Y (giao tử của bé trai).
Điều thú vị là một nghiên cứu năm 2008 về 927 gia đình đã chỉ ra rằng việc bạn sinh bé trai hay bé gái thực sự có thể là do người cha quyết định. Các nhiễm sắc thể trong tinh trùng không chỉ quyết định giới tính em bé. Nó còn cho thấy một số ông bố có thiên hướng sinh thêm nhiều con trai hoặc con gái.
Theo nghiên cứu, xu hướng sinh thêm con trai hoặc con gái của nam giới thừa hưởng từ cha mẹ. Điều này nghĩa là vài nam giới sản xuất nhiều tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y hoặc X hơn. Vì vậy, nếu một người đàn ông có nhiều anh em trai thì anh ta có khả năng sinh nhiều con trai hơn.
Bạn có thể cân nhắc xem mình đang ăn gì khi đang cố gắng quan hệ để sinh con trai. Mặc dù khái niệm này chưa được nghiên cứu hoặc chứng minh rộng rãi, một nghiên cứu năm 2008 trên 740 phụ nữ đã tìm thấy mối liên hệ giữa lượng calo hấp thụ và việc thụ thai bé trai.
Điều đó không có nghĩa là bạn nên tăng khẩu phần ăn của mình một cách điên cuồng. Và ăn no suốt cả ngày khi đang cố gắng thụ thai. Hãy nhớ rằng thói quen ăn uống lành mạnh (thực phẩm lành mạnh, trái cây và rau quả, đồ ăn nhẹ ít đường) sẽ giúp bạn nạp vào cơ thể một lượng calo thích hợp khi mang thai.
Những phụ nữ được nghiên cứu cũng tiêu thụ lượng kali cao hơn. Một số sản phẩm bổ sung kali là chuối, khoai lang và đậu trắng.
Nghiên cứu cũng lưu ý rằng những phụ nữ sinh con trai tiêu thụ nhiều ngũ cốc ăn sáng hơn so với những phụ nữ sinh con gái. Vì vậy, bạn có thể thử bằng cách thay đổi sang ngũ cốc ăn sáng mỗi ngày.
Một gợi ý khác để tăng cơ hội sinh con trai của bạn là phương pháp Shettles. Kế hoạch quan hệ để sinh con trai này được phát triển bởi Landrum B. Shettles vào khoảng năm 1960.
Sau cùng, tinh trùng chiến thắng trong cuộc đua và thụ tinh với trứng sẽ quyết định giới tính. Vì vậy, Shettles đã nghiên cứu tinh trùng. Ông tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ của tinh trùng. Ông ta xem xét thời điểm giao hợp, vị trí và độ pH của chất dịch cơ thể để xem có thể ảnh hưởng đến giới tính hay không.
Các điểm chính của phương pháp Shettles bao gồm:
Xem thêm: Quan hệ vào ngày nào để có thai? Những lưu ý để tăng khả năng mang thai
Phương pháp Shettles hiệu quả như thế nào? Shettles tuyên bố tỷ lệ thành công là 75% trong ấn bản của cuốn sách do chính ông viết ra. Có rất nhiều người khẳng định rằng họ đã quan hệ để sinh con trai thành công bằng phương pháp của ông.
Mặt khác, một số nghiên cứu cũ cho thấy quan hệ tình dục từ 2 đến 3 ngày sau khi rụng trứng có thể không dẫn đến mang thai. Một vài nhà nghiên cứu cho rằng các nhiễm sắc thể X và Y không có sự khác biệt về hình dạng như Shettes nói. Vậy nên phương pháp này không đảm bảo 100% tỷ lệ bạn sinh được con trai. Điều đó vẫn còn đang gây tranh cãi.
Bạn vẫn muốn tìm các cách đáng tin cậy hơn là quan hệ để sinh con trai? Tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và gia đình, bạn có thể thử các biện pháp can thiệp y khoa. Những phương pháp điều trị này có thể tốn kém, khiến tinh thần và thể chất của bạn mệt mỏi. Chúng cũng có rủi ro: biến chứng phẫu thuật, sảy thai và hội chứng quá kích buồng trứng (OHSS)… Do đó, các thủ thuật này không được khuyến khích trừ khi có nhu cầu đặc biệt.
Thông qua một quá trình được gọi là chẩn đoán di truyền cấy ghép trước (PGD) hoặc chọn lọc di truyền cấy ghép trước (PGS), có thể sử dụng thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) để tạo phôi. Từ đó kiểm tra giới tính những phôi này và cấy phôi có giới tính mong muốn vào tử cung.
Công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) giúp thụ thai một đứa trẻ thông qua các thủ thuật y khoa. Công nghệ hỗ trợ sinh sản bao gồm: thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), chuyển giao tử trong vòi trứng (GIFT) và chuyển hợp tử trong vòi trứng (ZIFT).
Thụ tinh trong ống nghiệm là một quá trình thụ tinh mà trứng kết hợp tinh trùng trong ống nghiệm. Quá trình này bao gồm việc theo dõi và kích thích quá trình rụng trứng của một người, đưa trứng ra khỏi buồng trứng và để tinh trùng thụ tinh trong môi trường nuôi cấy. Trong một nghiên cứu, khả năng thụ tinh ống nghiệm sinh con trai là từ 53% đến 56%. Điều này tùy thuộc vào thời gian trứng đã thụ tinh được đưa trở lại vào người nữ.
Chuyển giao tử trong vòi trứng (GIFT) được sử dụng cho phụ nữ hiếm muộn đang rụng trứng nhưng bị tắc vòi trứng (ống dẫn trứng). Những trứng lớn trong các nang trứng được lấy ra và sau đó đặt lại dưới điểm tắc nghẽn của vòi trứng bằng phương pháp nội soi. Mẫu tinh trùng cũng được đặt vào ống dẫn trứng và sự thụ tinh xảy ra. Hormone steroid (estradiol, progesterone) được sử dụng để hỗ trợ quá trình làm tổ và ngăn ngừa sảy thai.
Chuyển hợp tử trong vòi trứng (ZIFT) là một biến thể của phương pháp chuyển giao tử trong vòi trứng. Trứng được đưa ra khỏi cơ thể và thụ tinh với tinh trùng trong ống nghiệm. Sau đó hợp tử (sự kết hợp của tinh trùng và trứng) được đưa vào ống dẫn trứng.
PGD được sử dụng để xác định các khiếm khuyết gen đơn lẻ như bệnh xơ nang, bệnh Tay-Sachs, bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm và bệnh Huntington. Trong những bệnh như vậy, sự bất thường có thể được phát hiện bằng các kỹ thuật PCR khuếch đại DNA từ một tế bào.
PGS là một biện pháp được sử dụng để xác định các bất thường nhiễm sắc thể trong phôi thai. Kể cả khi không có bằng chứng xác định về bất thường di truyền ở cha hoặc mẹ.
Xem thêm: Các phương pháp hỗ trợ sinh sản phổ biến hiện nay
Hãy nhớ rằng mỗi đứa trẻ là duy nhất. Việc bạn có một bé gái không có nghĩa là việc nuôi con sẽ trở nên kém thú vị hơn. Bạn thụ thai thành công một bé trai không có nghĩa là cuộc sống sẽ diễn ra chính xác như những gì bạn đã dự đoán. Chỉ cần bạn nuôi dưỡng và giáo dục tốt, những đứa trẻ của bạn sẽ trở nên tuyệt vời. Chúng sẽ đem đến niềm hạnh phúc to lớn cho cuộc sống của bạn. Nếu bạn cảm thấy cực kỳ thất vọng, hay khó chịu trong việc quan hệ để sinh con trai, bạn cần nói chuyện với gia đình hoặc các chuyên gia tâm lý để điều tiết cảm xúc.
Link nội dung: https://cdsphagiang.edu.vn/muon-sinh-con-trai-a43598.html